Lịch sử Quảng Nam

Bản đồ đường qua xứ Quảng Nam thời Lê trung hưng, theo Thiên Nam lộ đồ vẽ lại năm 1741(bản sao chép của Dumoutier). Bãi cát vàng (鐄葛𣺽) trên bản đồ tức là Hoàng SaBản đồ tỉnh Quảng Nam của nhà Nguyễn Việt Nam in trong Đại Nam nhất thống chí

Thời nhà Trần

Trước kia Quảng Nam là đất Chiêm Thành. Năm 1306 theo thỏa ước giữa vua Chiêm Thành là Chế Mân và vua Đại ViệtTrần Nhân Tông thì vua Chế Mân dâng hai châu Ô tức Thuận Châu (nam Quảng Trị, Huế) và châu Rí tức Hóa Châu (một phần Huế, bắc sông Thu Bồn) làm sính lễ cưới con gái vua Trần Nhân Tông là công chúa Huyền Trân. Người Việt dần định cư tại hai vùng đất mới; người Chiêm Thành lùi dần về vùng đất còn lại phía Nam của vương quốc.

Năm 1402, nhà Hồ thay thế nhà Trần. Nhà Hồ chia Hóa Châu thành 4 châu nhỏ hơn là Thăng Châu, Hóa Châu, Tư Châu và Nghĩa Châu và đặt An Phủ Sứ cai trị.

Năm 1408, Trần Ngỗi khởi nghĩa ở Nghệ An, hai viên quan Đặng Tất ở Hóa Châu (Huế) và Nguyễn Cảnh Chân ở Thăng Hoa (Quảng Nam). Tháng Giêng âm lịch năm 1408, Trần Ngỗi đánh 4 vạn quân Trương Phụ ở Bô Cô (Nam Định). Các nông dân Phạm Tất Đại, Phạm Chấn, Trần Nguyệt Hồ, Lê Ngã kéo về theo quân Trần Ngỗi. Nhưng có người gièm pha với Trần Ngỗi rằng hai viên quan kia là con hoàng xà đã biến thành nên Trần Ngỗi giết chết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đưa con Trần Ngạc là Trần Quý Khoáng tiếm quyền.

Thời Lê

Năm 1471, sau khi chiếm vùng đất phía Nam Thuận Hóa cho đến đèo Cù Mông, vua Lê Thánh Tông lập thêm đơn vị hành chính thứ 13 - Thừa Tuyên Quảng Nam gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (nay là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Danh xưng Quảng Nam xuất hiện từ đây.

Thời chúa Nguyễn

Sang thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, Quảng Nam thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn (từ năm 1570). Hội An được nhà chúa chọn là điểm giao thương duy nhất với thế giới khi đó nên nhiều thương gia nước ngoài hay gọi vùng đất này là "Quảng Nam Quốc". Biên niên sử thời Nguyễn đã chép về giai đoạn này như sau: "Chúa ở trấn hơn 10 năm, (chúa Tiên Nguyễn Hoàng) chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều an cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một đô hội lớn".

Đến giữa thế kỷ 17, việc triều chính xứ Đàng Trong suy đồi. Thuế thì nặng; quan lại thì lợi dụng địa vị, sinh sự làm khổ dân. Trước hoàn cảnh đó, khi phong trào Tây Sơn bùng nổ, dân Quảng Nam cũng nổi dậy. Mùa thu năm 1773 khi quân Tây Sơn kéo ra Quảng Nam, dân Quảng Nam đã phối hợp cùng nghĩa quân phục kích ở Bến Đá (Thạch Tân, Thăng Hoa, Quảng Nam) đánh bại quân của chúa Nguyễn do các tướng Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Hữu Sách chỉ huy. Nhà Tây Sơn tuy vậy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi.

Thời nhà Nguyễn

Năm 1806 vua Gia Long thống nhất đất nước. Về hành chính, vua chia đất nước thành 23 trấn và 4 doanh thuộc đất kinh kỳ gồm Trực Lệ-Quảng Đức, Quảng Bình, Quảng Trị và Quảng Nam doanh.

Năm 1831, vua Minh Mạng đổi trấn và doanh thành tỉnh. Quảng Nam chính thức trở thành tỉnh từ năm này. Tỉnh Quảng Nam được chia thành 2 phủ Thăng Bình (升平) (trước là Thăng Hoa (gồm các huyện Lễ Dương (醴陽) Tam Kỳ (三岐), Hà Đông (河東), Quế Sơn (桂山)) và Điện Bàn 奠磐 (với các huyện Hòa Vang (和榮), Duy Xuyên (濰川), Diên Phúc (延福) (sau đổi là Diên Phước), Đại Lộc (大祿)).

Thời Pháp thuộc

Năm 1888, dưới triều vua Thành Thái, Đà Nẵng bị tách khỏi Quảng Nam để trở thành đất nhượng địa của thực dân Pháp.

Thời Việt Nam Cộng hòa

Dân số tỉnh Quảng Nam 1975[10]
QuậnDân số
Đại Lộc49.693
Điện Bàn164.761
Đức Dục47.461
Duy Xuyên84.206
Hiếu Đức15.906
Hiếu Nhơn82.442
Hòa Vang91.450
Quế Sơn73.629
Thường Đức17.963
Tổng số627.511

Sau Hiệp định Genève, tỉnh Quảng Nam thời Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1956 lại chia thành hai tỉnh mới lấy sông Rù Rì (tên gọi khác của sông Ly Ly) làm ranh giới là Quảng Nam ở phía Bắc gồm chín quận và Quảng Tín ở phía Nam gồm sáu quận.

Chín quận của Quảng Nam là:

  • Hòa Vang (nay thuộc thành phố Đà Nẵng)
  • Đại Lộc
  • Điện Bàn
  • Duy Xuyên
  • Đức Dục (một số xã miền núi của huyện Đại Lộc, Quế Sơn và Duy Xuyên, nay là huyện Nông Sơn)
  • Hiếu Nhơn (nay thuộc thành phố Hội An và một số xã của thị xã Điện Bàn)
  • Quế Sơn
  • Hiếu Đức (nay thuộc huyện Đông Giang, Tây Giang và một số xã miền núi của huỵên Hòa Vang (thành phố Đà Nẵng)
  • Thượng Đức (nay thuộc huyện Nam Giang và một số xã miền núi huyện Đại Lộc).

Tỉnh lỵ đóng tại Hội An thuộc quận Hiếu Nhơn (Hội An) [11].

Tỉnh Quảng Tín, từ sông Ly Ly vào đến Dốc Sỏi (ranh giới giữa Quảng Nam và Quảng Ngãi), gồm 6 quận:

  • Thăng Bình (nay thuộc huyện Thăng Bình và một phần huyện Hiệp Đức),
  • Tam Kỳ (nay thuộc thành phố Tam Kỳ, huyện Phú Ninh),
  • Lý Tín (nay thuộc Huyện Núi Thành)
  • Tiên Phước (nay thuộc huyện Tiên Phước và một phần huyện Hiệp Đức),
  • Hậu Đức (nay là huyện Nam Trà My và Bắc Trà My)
  • Hiệp Đức (nay thuộc huyện Phước Sơn và Hiệp Đức).

Dân số Quảng Tín lúc đó là 353.752 người; tỉnh lỵ đóng tại Tam Kỳ

Sau năm 1975

Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng

Sau khi thống nhất đất nước, chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quyết định sáp nhập hai tỉnh Quảng Nam, Quảng TínThành phố Đà Nẵng thành lập tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng với Đà Nẵng là tỉnh lị.

Sau khi thành lập tỉnh, có những thay đổi hành chính như sau: chuyển thị xã Đà Nẵng thành thành phố Đà Nẵng, hợp nhất thị xã Tam Kỳ và 2 huyện Bắc Tam Kỳ, Nam Tam Kỳ thành huyện Tam Kỳ.

Đến năm 1980, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng có thành phố Đà Nẵng (tỉnh lị), thị xã Hội An, 12 huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hòa Vang, Phước Sơn, Quế Sơn, Tam Kỳ, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My.

Ngày 4 tháng 2 năm 1982, thành lập huyện đảo Hoàng Sa [12]

Ngày 3 tháng 12 năm 1983, chia huyện Tam Kỳ thành thị xã Tam Kỳ và huyện Núi Thành.[13]

Ngày 31 tháng 12 năm 1985, thành lập huyện Hiệp Đức trên cơ sở tách 2 xã thuộc huyện Thăng Bình, 4 xã thuộc huyện Quế Sơn và 2 xã thuộc huyện Phước Sơn.[14]

Đến năm 1991, tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng gồm: thành phố Đà Nẵng (tỉnh lị), 2 thị xã: Tam Kỳ, Hội An và 14 huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hiệp Đức, Hòa Vang, Hoàng Sa, Núi Thành, Phước Sơn, Quế Sơn, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My.

Tỉnh Quảng Nam

Năm 1997, tại kỳ họp thứ X của Quốc hội, tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng được chia thành hai đơn vị hành chính độc lập gồm Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Tỉnh Quảng Nam mới có 14 huyện gồm Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hiệp Đức, Núi Thành, Phước Sơn, Quế Sơn, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My và 2 thị xã: Tam Kỳ (tỉnh lị), Hội An.

Ngày 16 tháng 8 năm 1999, huyện Giằng được đổi tên thành huyện Nam Giang.[15]

Ngày 20 tháng 6 năm 2003, chia huyện Trà My thành 2 huyện: Bắc Trà MyNam Trà My; chia huyện Hiên thành 2 huyện: Đông GiangTây Giang.[16]

Ngày 5 tháng 1 năm 2005, chia thị xã Tam Kỳ thành thị xã Tam Kỳ và huyện Phú Ninh.[17]

Ngày 29 tháng 9 năm 2006, chuyển thị xã Tam Kỳ thành thành phố Tam Kỳ.[18]

Ngày 29 tháng 1 năm 2008, chuyển thị xã Hội An thành thành phố Hội An.[19]

Ngày 8 tháng 4 năm 2008, chia huyện Quế Sơn thành 2 huyện: Quế SơnNông Sơn.[20]

Ngày 11 tháng 3 năm 2015, chuyển huyện Điện Bàn thành thị xã Điện Bàn.[21]

Tỉnh Quảng Nam có 2 thành phố, 1 thị xã và 15 huyện như ngày nay.

Ngày 5 tháng 2 năm 2016, thành phố Tam Kỳ được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Quảng Nam.[22]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quảng Nam http://news.blogs.cnn.com/2011/04/13/reserve-estab... http://www.vietnamtourism.com/v_pages/country/prov... http://lucci-vietnam.info/ //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?Artic... http://quangnam.edu.vn/index.php http://www.gso.gov.vn/Modules/Doc_Download.aspx?Do... http://www.gso.gov.vn/Modules/Doc_Download.aspx?Do... http://www.most.gov.vn/c_so_khcn/mlfolder.2006-07-... http://www.ngoaivuquangnam.gov.vn/index.php?option...